Các cháu yêu quý,
Hôm nay gia đình chúng ta có mặt đông đủ ở đây để tiễn đưa về nơi an nghỉ cuối cùng một người thân yêu đã tận tụy mà lặng lẽ hiến cả cuộc đời mình cho một trong sự nghiệp quan trọng nhất đối với bất cứ xã hội nào, là sự nghiệp giáo dục, đào tạo và xây dựng con người; một con người, một nhà giáo dục xuất sắc mà tất cả gia đình chúng ta có quyền tự hào. Con người ấy đã đi qua cuộc đời này bảy mươi tám năm. Bảy mươi tám năm trên cõi dương thế là ngắn hay là dài? Nói cho cùng, ngắn dài không phải là điều quan trọng nhất trong đời người, quan trọng là ý nghĩa của cuộc sống, và cách sống của một con người trong cuộc sống dài hay ngắn đó. Trong khi chuẩn bị viết lời tiễn đưa cuối cùng này, gia đình chúng ta đã cố công tìm các tài liệu của người vừa ra đi để lại, mong nói được đôi điều về cuộc đời bảy mươi tám năm của ông, nhưng hầu như chẳng tìm được gì. Chỉ có một bản lý lịch tự tay ông viết, hết sức vắn tắt, và một bản khai bảo hiểm của ông, càng vắn tắt hơn. Vậy đó, người thân yêu vừa ra đi của chúng ta hầu như suốt đời không viết gì về chính mình, ông đi qua cuộc đời hầu như không hề muốn để lại chút dấu vết nào về mình, không muốn nói đến những hy sinh, cống hiến, công lao của mình. Cuối cùng, chỉ tìm được một câu ngắn của ông, do một người vì cảm phục sự nghiệp và tài đức của ông mà nhắc lại trong bài viết về ông in ở cuốn sách về các nhà giáo ưu tú. Câu nói ấy như sau: “Hơn bốn mươi năm làm nghề dạy học, cũng gần từng ấy năm làm Hiệu trưởng, điều tôi tâm đắc nhất là chưa một lần phải ký quyết định kỷ luật giáo viên, với học sinh cũng là hãn hữu”. Một câu hết sức vắn tắt, có lẽ là câu duy nhất ông tự nói về mình, công việc của mình, cuộc đời mình, ngắn gọn, giản dị, mà lại nói được về cả sự nghiệp của ông và về cả cuộc đời ông, với tư cách là con người và với tư cách là nhà giáo. Hơn bốn mươi năm - thực ra là năm mươi năm –, nửa thế kỷ dạy học, đào tạo ra bao nhiêu thế hệ học trò; và hầu như ngay từ đầu đã đảm nhiệm chức vụ Hiệu trưởng, từ tiểu học, trung học cơ sở, rồi trung học phổ thông, nghĩa là ngay từ đầu đã chứng tỏ là một nhà giáo giỏi, giàu đức độ và giàu tài năng, vẹn toàn, và rất sớm bộc lộ khả năng lãnh đạo. Một người thầy và người lãnh đạo mẫu mực, nghiêm túc mà nhân ái, hiểu biết sâu sắc giáo dục và hiểu biết sâu sắc con người, để cho tất cả các giáo viên dưới quyền lãnh đạo của mình, được mình chăm lo đào tạo, hướng dẫn suốt nửa thế kỷ, đều là những giáo viên tốt và tận tụy, học trò của mình luôn là học trò tốt, biết noi gương sáng của thầy.
Hẳn không phải ngẫu nhiên mà có được một con người như vậy. Có cả một truyền thống của gia đình và quê hương, lại cũng còn có cả một quá trình phấn đấu âm thầm mà dũng cảm, kiên định, theo một chí hướng cao quý, đinh ninh.
Người thân của chúng ta, ông Nguyễn Tiến sinh năm 1934 tại xã Ba Động, tỉnh Quảng Ngãi. Ba Động chỉ cách Ba Tơ khoảng mươi cây số, là một trong những nơi xuất phát quan trọng nhất của cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ năm 1945, và chính từ cuộc khởi nghĩa Ba Tơ đã ra đời Đội Du kích Ba Tơ, một trong ba đội quân đầu tiên, cùng với đội Việt nam Tuyên truyền Giải phóng quân và Đội Du kích Bắc Sơn, được coi là tiền thân của Quân đội nhân dân Việt nam. Cụ Nguyễn Phu, thân phụ của ông, đã sớm chịu ảnh hưởng của những người cộng sản Ba Tơ, tham gia công tác cách mạng ngay từ Khởi nghĩa tháng 8-1945, vào Đảng từ năm 1947, nhiều năm lăn lộn công tác ở vùng rừng núi miền tây Quảng Ngãi, hy sinh trên đường công tác năm 1951.
Cậu bé Nguyễn Tiến học cấp một ở xã, học cấp hai ở huyện Đức Phổ, Quảng Ngãi, khi cả huyện mới chỉ có 7 học sinh cấp sinh cấp 2; sau khi tập kết ra Bắc được đưa đi học trường sư phạm ở Vinh. Bấy giờ học sinh miền Nam tập kết không có nhiều người được đưa đi học sư phạm, hẳn những người phụ trách lúc đó đã sớm nhận ra những tố chất của một người làm giáo dục ở anh thanh niên sớm chín chắn này. Ra trường thầy giáo Nguyễn Tiến được bổ về làm giáo viên cấp 1 chỉ một năm ở trường Ngũ Hùng, Thanh Miện, Hải Dương, năm sau đã được điều về làm Hiệu trưởng trường tiểu học Tử Cường, cũng thuộc Thanh Miện. Chính ở đây, sau hai năm công tác, với thành tích xuất sắc, thầy giáo Nguyễn Tiến đã được kết nạp vào Đảng, khi mới 22 tuổi, sớm nhất trong các đồng nghiệp cùng lứa tuổi. Cùng năm đó thầy được bầu Chiến sĩ thi đua cấp tỉnh. Nhận thấy triển vọng phát triển đặc biệt ở nhà giáo đặc sắc này, năm 1960 thầy được cho đi học trường trung cấp sư phạm ở Hải Phòng, và ngay khi ra trường liền được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng trường phổ thông cấp 2-3 Kim Thành, cũng ở Hải Phòng. Con đường dạy người của thầy Nguyễn Tiến ngày càng mở rộng. Năm 1962, ông được cho đi học trường Đại học Sư Phạm Hà Nội, khoa Văn, ra trường năm 1965, về làm Tổ trưởng tổ Văn trường cấp 3 Xuân Đình, Hà Nội, góp phần tích cực xây dựng ngôi trường này trở thành Lá cờ đầu về dạy và học trên toàn miền Bắc.
Năm 1968, cuộc chiến tranh chống Mỹ ở miền miền Nam bước vào một giai đoạn quyết định. Miền Nam gọi, thầy giáo Nguyễn Tiến lập tức có mặt. Cần nói đôi chút về tình hình miền Nam lúc bấy giờ, sau Tết Mậu Thân. Đấy là những năm tháng vô cùng ác liệt, khó khăn, chiến trường Quảng Ngãi lại càng là trọng điểm của ác liệt, khó khăn. Địch đánh rát khắp miền núi, đồng bằng. Đói kém, hy sinh, có những ngày tháng thật sự đen tối, chỉ có những con người thật sự can trường, thậm chí vững như thép, mới trụ vững và vượt qua được. Thầy giáo Nguyễn Tiến đã về sống và làm việc ở Quảng Ngãi chính trong những năm tháng đó. Bất chấp bom đạn, đói khát, thầy Nguyễn Tiến, ở cương vị trưởng ban giáo dục huyện Trà Bồng, rồi Hiệu trưởng trường Vừa học vừa làm của tỉnh, đã góp phần làm được một công việc thật kỳ diệu: vừa sản xuất để tự nuôi sống, vừa đánh giặc để tồn tại, vừa vẫn làm giáo dục, có lẽ như hiếm có nơi nào trên thế giới người ta lại làm giáo dục trong những hoàn cảnh như vậy, vẫn dạy vẫn học, đem lại ánh sáng văn hóa cho người dân, người lính, người Kinh, người Thượng, xóa nạn mù chữ, bổ túc văn hóa …, và chăm chú chuẩn bị tri thức cho con người để sẵn sàng cho nhiệm vụ xây dựng, kiến thiết lại quê hương sau ngày toàn thắng. Người thầy giáo lúc này thật sự là người chiến sĩ, thậm chí còn phải bình tĩnh, vững vàng hơn cả người chiến sĩ. Và đầy lòng tin ở tương lai. Bởi vì giáo dục chính là vậy, là lo cho tương lai. Lo cho xây dựng con người, xây dựng xã hội, xây dựng đất nước.
Chính vì vậy khi đất nước được hoàn toàn giải phóng, sau năm 1975, thầy giáo Nguyễn Tiến càng say mê lao vào công tác giáo dục, với nhiệt tình lôi cuốn được mọi người, với kinh nghiệm tích lũy dày dặn, cả về dạy học, cả về lãnh đạo trong ngành giáo dục. Từ năm 1975 đến năm 1980, ông làm Hiệu trưởng trường Trung cấp Sư Phạm tỉnh Quảng Ngãi, tức đảm nhiệm một công việc quan trọng nhất lúc này: xây dựng lực lượng mạnh cho công tác giáo dục mới trong tình hình khác trước và cao hơn trước.
Từ năm 1980 ông về đảm nhiệm chức Hiệu trưởng trường cấp 3 Trần Quốc Tuấn, trường phổ thông trung học lớn nhất của tỉnh Quảng Ngãi, và đã ở cương vị này suốt 17 năm. Có thể nói đây là giai đoạn thành tựu rực rỡ nhất trong sự nghiêp của ông. Dưới sự dắt dẫn, lãnh đạo của ông, trường Trần Quốc Tuấn đã thật sự thành một trường nổi tiếng, với những thành tích giáo dục thực chất và nổi bật. Việc 17 học sinh của trường đạt các giải thưởng quốc gia, việc trường có học sinh Trương Mỹ Hạnh Trâm đạt giải Sinh vật quốc tế … là những ví dụ. Bao thế hệ học sinh trường Trần Quốc Tuấn mãi mãi biết ơn thầy Hiệu trưởng Nguyễn Tiến. Và dẫu đã về hưu từ năm 1997, ảnh hưởng tốt đẹp của ông đối với ngôi trường này vẫn còn rất lớn và lâu dài… Về hưu, thầy Nguyễn Tiến vẫn vẫn không thể rời được sự nghiệp giáo dục. Ông lập trường dân lập Hoàng Văn Thụ, tiếp tục phát huy kinh nghiệm phong phú của ông trong một loại hình trường mới. Là người rất ít lời, nhưng ông vẫn có một câu nói để đời, có thể tóm tắt tâm huyết cả cuộc đời ông, ông nói: “Chỉ khi trút hơi thở cuối cùng, tôi mới thôi làm giáo dục!”
Là người thầy kính yêu của bao thế hệ học trò khắp bắc nam, ông Nguyễn Tiến cũng là người chồng hết mực thương yêu vợ, người cha thương con chẳng mấy ai bằng. Khó khăn cả cuộc đời ông rất lớn, công việc của ông chưa bao giờ đỡ nặng nhọc, nhưng với một tình thương yêu rộng lớn và sâu thẳm, ông đã chăm lo cho các con đều đã vững vàng trưởng thành, xứng đáng là con của một người thầy giáo mẫu mực, có thể nói một người thầy giáo lớn, tuy ông luôn khiêm nhường, như có người đã viết về ông, “như một chiến sĩ vô danh”.
Hoa ạ, em là người có hạnh phúc, em đã có được một người chồng xứng đáng để mà có thể tự hào. Hãy vì niềm tự hào đó mà vượt qua đau thương lớn này. Hơn lúc nào hết, các anh chị càng thương em vô cùng. Và tin ở sự rắn rỏi, can trường của em.
Các cháu thân yêu, các cháu cũng là những người có hạnh phúc. Các cháu hoàn tòan có thể tự hào về người cha của mình, tuy các cháu biết rõ hơn ai hết, ông không bao giờ nói về mình, cống hiến lớn và sự hy sinh lớn của mình.
Chồng của em, Hoa ạ, là một thầy giáo ưu tú, thật sự ưu tú.
Các cháu thân yêu, cha các cháu là một thầy giáo ưu tú, thật sự ưu tú, hãy tự hào một cách chính đáng, và sống thật xứng đáng với cha.
Cho ở nơi chín suối, ông được mỉm cười.
TPHCM, 08/07/2011
Nguyên Ngọc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Cám ơn bạn đã nhận xét. Vui lòng để lại thông tin để chúng tôi cảm ơn bạn